Tất cả mọi người khi nhắc đến lụa tơ tằm, đều hình dung đó là một chất liệu vải rất bóng, mềm và đẹp. Mường tượng đó là đúng, nhưng chưa nắm bắt đầy đủ về lụa tơ tằm. Chính vì sự nắm bắt nhân thức chưa vừa đủ này về lụa tơ tằm, mà người tiêu dùng dễ bị lường gạt bởi các chất liệu vải có tính chất tương tự với tơ tằm. Từ đó dẫn đến trạng thái, người tiêu xài hoang mang, không biết đâu là lụa tơ tằm, và lụa tơ tằm có những loại nào? Và chọn loại nào thì phù hợp với mình.
Bài viết này sẽ tổng hợp những thông tin cơ bản nhất về nghề sản xuất lụa tơ tằm. Nhằm cùng cấp cho bạn một cái nhìn tổng quan về lụa tơ tằm, các loại sợi lụa tơ tằm và vận dụng của từng loại lụa tơ tằm.
Nghề nuôi tằm
Nghề nuôi tằm lấy tơ đã mở đầu ít ra là 5.000 năm trong khoảng Trung Quốc và được quảng cáo dần tới các nước Hàn Quốc, Nhật Bạn dạng, Ấn độ và Phương Tây. Riêng ở nước ta, nghề trồng dâu nuôi tằm cũng đã xuất hiện từ thời Hùng Vương.
Nghề nuôi tằm được biết đến như trồng dâu nuôi tằm.
“Con Tằm”, về mặt công nghệ, không phải là một con sâu mà là ấu trùng của con ngài. Đương nhiên, để cho đơn giản và nhất quán, chúng ta sẽ sử dụng từ con tằm trong suốt bài viết này.
Ấp trứng
Thời kỳ trước tiên của quá trình đóng chai tơ lụa là đẻ trứng, trong một môi trường được giữ vững chả hạn như một hộp nhôm đã được kiểm tra để bảo đảm không lây nhiễm bệnh, bình dân ta thì dùng một cái bát úp trên một tờ giấy phiên bản, con ngài cái đẻ một lần 300 đến 400 trứng. Kích thước của mỗi trứng bằng đầu kim, có hình bầu dục, nhỏ nhắn dẹt, vỏ cứng, màu trắng sữa, hoặc hơi quà, trên vỏ trứng có phổ thông lỗ khí. Khi ngài đẻ kết thúc thì cánh xờ xạc, mỏi mệt, phấn trôi khỏi bản thân mình Con ngài cái chết toàn bộ ngay ngay thức thì sau khi đẻ trứng và con ngài đực cũng chỉ sống được thêm một thời gian ngắn sau đó. Con ngài có phần miệng bị thoái hóa, nó không ăn được trong thời gian trưởng thành ngắn ngủi của chính mình.
Màu sắc trứng đổi mới theo giống tằm và thời điểm phát dục: Giống độc hệ và lưỡng hệ kén trắng, khi mới đẻ, trứng có màu quà đậm. Trong giai đoạn phát dục của trứng, màu sắc của trứng chuyển đổi như sau: Giống độc hệ và lưỡng hệ (trứng có nghỉ đông) trứng chuyển từ màu trắng sang màu hồng (sau đẻ 36-48 giờ), rồi chuyển sang màu nâu đậm hay còn gọi là màu đen (sau đẻ 72 giờ). Khi trứng chuyển sang màu nâu đậm thì trứng bắt đầu đi vào giai đoạn nghỉ đông và màu nâu đậm được duy trì trong suốt công đoạn nghỉ đông của trứng. Người ta Áp dụng công đoạn nghỉ đông của trứng để vận tải. Giống đa hệ (trứng không nghỉ đông) thì trứng chuyển từ màu vàng sang điểm đen (trên bề mặt trứng sinh ra một điểm đen) sau khi đẻ 5-6 ngày, và sau cuối toàn bộ bề mặt trứng có màu xanh xám (sau khi đẻ 9 ngày) gọi là trứng ghim.
Những quả trứng nhỏ nhắn của con ngài được ấp cho tới khi nở thành ấu trùng (con tằm). Trứng tằm muốn nở đều, tập trung, cần ấp nhiệt độ 25-26oC, ẩm độ 80-90%, ánh sáng thiên nhiên. Chừng mười ngày sau, trứng tằm đổi từ màu trắng sang màu đen Khi trứng ghim, cần bảo quản tối hoàn toàn 01 ngày để khi được xúc tiếp ánh sáng tằm nở đều. Độ 3, 4 ngày sau nữa, nở thành những con sâu gầy bằng đầu tăm, lớn bằng tăm xỉa răng, dài chừng1/2 cm, giống như đám sâu lúc nhúc có màu xanh xám đậm hay màu đen, có lông, có chân, có đầu, có miệng và có răng.
Quá trình cho tằm ăn
Tằm nở ngày nào được nuôi riêng ngày ấy, trong thời điểm đó chúng ngủ và lột xác bốn lần, mỗi lần được định danh thêm 1 tuổi.
Sau khi nở, tằm được đặt trong một lớp đệm như nong nia và ăn một vài lượng lớn lá dâu non hay bánh tẻ, dùng dao sắc thái thật bé bỏng như thái thuốc lào rồi rắc nhẹ lên bản thân mình tằm. Khi nào tằm ăn hết thì lại rắc ngay lớp khác, suốt đêm ngày chia khoảng 10 bữa. Lá dâu phải sạch, không được trồng gần ruộng trồng thuốc lào, ớt hay cây xanh khác mà có hơi mùi thuốc trừ sâu là xem như lá dâu ấy vứt. Tằm cũng có thể ăn Osage màu da cam là một cây họ dâu tằm hoặc rau diếp đương nhiên tằm ăn lá dâu tằm sản xuất tơ tằm tốt nhất, màu tơ cuốn hút nhất. Mỗi ngày còn phải vệ sinh, thay tằm. Vì chỗ tằm ăn còn lại những xơ lá và phân tằm; phải giỡ tằm đem sang nong khác, rồi bỏ chỗ xơ lá và phân tằm đi, thứ này khiến cho đồ bón cây tốt. Nuôi tằm vất vả ngày đêm, vì thế dân gian xưa có câu: “Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”.
Tằm ăn như vậy bốn ngày thì mình vàng ra, nằm lặng không ăn nữa gọi là tằm ngủ. Khi 90% tằm ngủ thì người nuôi tằm xong xuôi cho ăn. Tằm chuẩn bị ngủ, có màu bóng tiến thưởng, ăn ít dâu. Hình như tằm ngủ, cần yên tĩnh, ánh sáng yếu, giảm thiểu gió lùa và động mạnh vào nong, đũi.
Tằm ngủ, ngưng ăn dâu, ít nhúc nhắc, đầu ngấc cao, sau 20-24 giờ tuỳ theo mùa, lột xác, chuyển sang tuổi sau, tằm dậy. Tằm lột lớp da đen sì đầu tiên, trở thành màu xanh rất nhạt và lại mở màn ăn quay về. Tằm dậy 95% thì cho ăn lại, bữa trước tiên cho ăn lá dâu tươi, thái ốm hơn bữa thứ 2 trở đi.Lúc này vẫn phải thái lá dâu nhưng thái hơi lớn cũng được. Sau bốn ngày nữa, lại ngủ, lại lột da, lại dậy ăn quay về; lần này màu da xanh thêm và nhẵn chứ không có lông nữa. Lại ăn lại ngủ cùng thời gian như trước. Nghĩa là ngủ ba lần rồi dậy ăn. Nuôi tằm con tuổi 1,2,3 có tác động rất lớn tới kết quả nuôi tằm lớn tuổi 4,5. Tằm lên hai, dài cỡ 1cm. Tằm lên ba, 1,5cm. Tằm lên bốn, cỡ 3cm, còn màu xanh xám; Tằm lên năm, trong thời kỳ ăn rỗi, cơ thể tằm lớn lên rất nhanh, 8,000 – 10,000 lần so với tằm mới nở, bằng đầu đũa ăn cơm, dài chừng 4,5cm.
Tằm tuổi 4 ăn 10%, tuổi 5 ăn 80% lượng dâu của cả lứa. Tính trung bình, tằm sẽ ăn chất liệu thực vật gấp 50.000 lần trọng lượng lúc đầu. Công đoạn này, tằm bài xuất rộng rãi, sức đề kháng yếu dễ bị măc bệnh.
Khi đến lần ngủ thứ tư, và cũng là lần sau cùng trong đời tằm, rồi trở dậy thì tằm lớn gần bằng ngón tay út, lần này gọi là tằm ăn rỗi. Lúc này thì rắc cả lá dâu hoặc cả cành bé dại cũng không sao, tằm ăn rất với tốc độ cao, rất khỏe. Người nuôi tằm chạy dâu bở hơi tai! Cả ngày cả đêm ăn đến 15, 16 bữa. Mỗi ngày phải thay tằm nhị lần. Bận bịu nhất là giai đoạn này. Trong nhà tằm lúc nào cũng nghe tiếng rì rào vì hàng trăm răng tằm nghiến tham gia lá dâu. Tằm trở nên màu xanh lục thẫm rất đẹp, da căng bóng.
Tằm con có khả năng chịu được nhiệt độ cao, ẩm độ cao hơn tằm lớn và sinh lý cũng khác tằm lớn nên cần được chăm nom chú ý. Dứt cho ăn dâu quá sớm trước khi ngủ, cho tằm ăn quá muộn sau khi dậy đều làm cho tằm đói, cơ thể hư nhược, tạo điều kiện cho bệnh phát hành.Tằm lớn cần nuôi dưỡng trong không gian thông thoáng, không khí luân chuyển, trong sạch, giảm thiểu gió lùa mạnh và ánh sáng trực xạ.
Từ sáu tuần tằm ăn số đông liên tiếp. Sau khi phát hành đến kích thước tối đa của nó trong khoảng 6 tuần, nó dừng ăn, đổi mới màu sắc, và nặng hơn khoảng 10.000 lần khi nó nở. Tuổi 5 cho tằm ăn dâu trọn vẹn, sau 6-8 ngày tằm chín. Tằm chín da láng bóng, tằm ngưng ăn dâu, có khuynh hướng bò đi tìm nơi phù hợp khiến tổ. Khi có ít ra 1/3 thân thể con tằm có màu trong suốt là thời gian tằm đã sẵn sàng để đóng kén.
Đóng kén
Khi tằm chín vàng, được bắt lên né đóng kén, phải thật nhanh tay để tằm hạn chế khỏi cay mắt.
Né là tấm phên đan bằng tre, có những lỗ hổng vuông rộng mỗi bề độ mười phân. Nhặt tằm đã chín bỏ vào né, đem để ra chỗ hơi có ánh nắng. Khi tằm đang đóng kén, người nuôi phải “hong nắng” và “sưng sấy” sao cho kén khô, thơm để khi ươm tơ kén không bị tan, cho sợi tơ quà óng, dễ ợt cho người ươm tơ.Thiếu ánh nắng, tằm làm kén không được đẹp, vì trước khi nhả tơ khiến cho kén, tằm… đi tiểu lần đầu và là lần cuối trong đời tằm rồi mới mở màn làm kén. Ánh nắng nhẹ làm cho khô nước đái tằm và kén sẽ có màu quà đỏ rất đẹp; ngược lại nếu như tằm chín phải ngày mưa, phải để né ở trong nhà thì kén có màu không được tươi, vì chất nước đái tằm thấm vào kén. Nhưng cũng chỉ canh để cho ánh nắng nhẹ thôi, nắng hot tằm cũng chết mà không khiến cho kén được.
Tằm tự gắn nó trên né để nhả tơ đóng kén từ thời gian 3-8 ngày.
Tằm có một cặp tuyến nước bọt khác lạ được dùng cho việc đóng chai tơ, chất lỏng protein trong suốt, nhớt được tiết ra qua các lỗ hở gọi là lỗ nhả tơ trên phần miệng của con tằm.
Trục đường kính của lỗ nhả tơ xác định độ dày của sợi tơ, được nhả thành một sợi dài liên tiếp. Chất lỏng đông cứng lại khi xúc tiếp với không khí và tạo thành một cặp sợi tơ protein. Các tuyến tiết ra một cặp một chất lỏng thứ hai gọi là sericin, một dạng sáp kết nhì sợi tơ với nhau, bảo vệ sợi tơ và kén tằm.
Đều đặn trong vòng bốn ngày liên tục, con tằm xoay thân thể của nó trong một di chuyển hình số 8 khoảng 300.000 lần, xây đắp nên một cái kén và nhả ra khoảng một km sợi tơ rồi hoá nhộng hoàn toàn. Cái kén tằm được phát hành để giúp con tằm chống đỡ ngoại cảnh bên ngoài và quân địch tự nhiên.Tằm cả đời chỉ khó nhọc chăm lo cho việc ăn của bản thân, kế đó là làm cho sao có được cái tổ kén tiến thưởng bền đẹp, bên ngoài là các sợi tơ óng mượt, bên trong là một lớp vỏ mịn màng và không kém phần bền chắc, để rồi đến cuối của vòng đời, tằm sẽ lặng nghỉ một cách thức bình yên trong đó, kệ cho tạo hóa xoay vần “thành nhộng”. Cả vòng đời của tằm nặng nhọc như thế đó. Khi tằm chín quà bắt đầu làm cho kén thì nó tròn và dài độ bằng ngón tay út. Khi nó khiến kén xong thì tằm thu hình lại, ngắn còn bằng nửa ngón út, lột lớp da tằm ra biến thành con nhộng, chính mình tròn mập, thon hai đầu, không cánh không chân không mắt, chịu nằm tù trong kén.
Kén tằm có nhị màu: trắng và vàng là do nhì giống tằm không giống nhau đóng kén cho màu khác nhau. Giống tằm kén trắng cho sợi tơ dài hơn, mỗi kén kéo được khoảng 700 mét tơ, năng suất cao hơn nhưng không chịu được nhiệt độ mùa hè Việt nam. Giống tằm kén tiến thưởng là giống tằm truyền thống của người Việt, cho màu đẹp nhưng năng suất thấp hơn, mỗi kén chỉ được khoảng 300 mét tơ.
Lúc này người nuôi tằm gỡ kén, đoàn kết phân loại sơ bộ. Phần nhiều sẽ được đưa đi ươm tơ không tính một ít kén to, đều được chọn riêng ra để khiến cho giống cho lứa sau. Kén nào bé bỏng mà nhọn đầu là kén đực, tròn mà đầy đặn là kén cái. Độ 12, 13 ngày sau, kể từ khi tằm chín mở màn nhả tơ và làm thành kén thì nhộng trở thành con ngài, ở trong cái kén được lựa khiến cho giống, cắn thủng một đầu kén và chui ra ngoài. Con ngài màu hơi trắng ngà, giống con bướm có bốn cánh, nhưng cánh ngắn và nhỏ bé hơn cánh bướm, xòe ra nhì bên, giữa là khúc chính mình tròn mập, thon nhì đầu, ngắn bằng nửa ngón tay út, cánh và bản thân dính đầy phấn màu ngà. Con đực và con cái tậu nhau để giao hợp. Ngài cái được đặt tham gia nơi để đẻ trứng và chết. Một vòng quay mới lại mở màn với chu kỳ đẻ trứng, trứng nở ra con tằm và rồi lại nhả tơ, đóng kén, hóa nhộng, thành ngài…
Ươm tơ
Sau khi gỡ xong khỏi né, kén để ươm tơ được dàn đều trên nong để loại tiếp những kén bẩn, mỏng mảnh, thối, thủng đầu… Dụng cụ đựng phải cứng để kén nhộng không bị dập nát trong quá trình vận chuyển.
Kén tằm có phẩm chất tốt không cố định phải có kích thước lớn mà cần mẩy, rộng rãi tơ, ít áo kén, dễ kéo tơ và kén phải đồng dạng về hình dáng và kích thước.
Trong khoảng khi bắt tằm chín lên né, độ nhị ngày sau thì mở màn ươm tơ. Phải ươm trong vòng độ 10, 12 ngày là phải ngừng hết các kén đã đóng; nếu như chậm chạp, ngài cắn kén chui ra là coi như mất hết, không ươm được tơ nữa vì sợi tơ bị cắn đứt.
Ươm tơ, là thứ tự gia công kéo sợi tơ trong khoảng kén tằm thành sợi tơ tằm. Trong thứ tự ươm tơ, người ta đem kén tằm nấu nội địa sôi, làm cho lớp keo tơ secirine tan ra một phần, kén mềm và thuận tiện rút thành sợi. Mở màn, người ta thả những cái kén tham gia nồi nước sôi hay chảo miệng rộng, đảo kén thành từng nhóm nổi trên mặt nước, tậu mối tơ gốc rút ra, cho quấn tham gia những con suốt, hình giống như lõi ống chỉ, xếp thẳng đứng thành hàng ngang, rồi cho chạy vào những guồng tơ tròn bằng gỗ, nằm bắc ngang trên nồi nước sôi, để kéo hết tơ ở mỗi cái kén khiến cho thành con tơ. Phần còn lại, lớp trong của kén cũng cho vào guồng ươm tơ quay tham gia ống lấy tơ nõn màu vàng nhạt, là sợi dây mảnh phía trong của kén. Sợi tơ này gồm nhị sợi dây mảnh, tiết ra trong khoảng cặp tuyến tơ ở tằm chín và dán chặt vào nhau, được bao phủ bởi một lớp keo (sericin ), người ta tẩy sạch sẽ lớp keo này khi kéo tơ.
Khi kén được lấy hết tơ, những con nhộng tằm lộ ra. Nhộng tằm là món ăn ngậy, béo và bồi bổ rất được ưa thích.
Kén cắn tổ, không thể ươm tơ thì được kéo thành sợi đũi. Sau đây là cách thức kéo sợi đũi trong dân dã Việt nam:” Kén đem ngâm vào nước 3 giờ, vắt sạch nước, nước ngâm và vắt trong khoảng nước kén ra gọi là nước cốt, nước này phải giữ lại để sau ngâm kén lần nữa. Bỏ kén vào nồi đun sôi một vài phút, thấy kén thâm đều là được. Kén luộc hoàn thành, vắt kiệt nước thả tham gia nồi nước cốt, ngâm một đêm thì kén chín, kén chín vừa kéo trơn tuột và nhẹ tay. Kén sống rất khó kéo và rất nặng tay, kén chín quá thì sợi nẫu ra thành một cái búi rác, không kéo được. Người kéo sợi ngồi trên ghế sợi và thấp. Trước một cái chậu sành đầy nước và kén, nhì tay ngâm trong nước để kéo sợi. Kéo sợi không dùng một khí cụ trung gian nào dù dễ chơi như đôi đũa, một tay giữ kén, một tay kéo, thuận tay nào kéo tay ấy. Kéo kết thúc một mẻ sử dụng giằng sợi cuộn lại thành từng con, cho lên sào phơi, mỗi con sợi tương đương một lạng. Sản phẩm này được dệt thành lụa đũi, Lụa đũi to, xốp, mềm, nhẹ. Nhóm kéo sợi đũi toàn là nữ giới, cụ già 70 – 80, mắt còn tinh thì kéo được. Kéo sợi trông dễ chơi nhưng khó nhọc và không dễ dàng hơn ươm tơ. Nhị tay ngâm nước suốt ngày này qua ngày khác. Mùa hè nước ăn tay, phải thường xuyên xát phèn chua, mùa đông tê cóng thỉnh thoảng phải đổ thêm nước nóng, kéo sợi dọc phải tinh mắt đều tay sợi mới nuột nà, thợ lành nghề mới kéo được sợi dọc và để ra một sản phẩm nguời thợ không chỉ có những khả năng mà chứa trong đó cả cái hồn của nghệ thuật.”
Thời kỳ se sợi
Sau đó tơ nõn sẽ được se với nhau, tùy theo thuộc tính, số lượng sợi và vòng xoắn để bận rộn cửi rồi dệt thành các loại hàng vải khác biệt.
Trong khoảng khi tằm nhả tơ cho đến lúc dệt thành vải phải trải qua phổ thông quá trình: ươm tơ, lấy tơ, nhập tơ, guồng tơ, tiến công ống, mắc cửi … rồi nối cửi, rồi dệt.
Tơ tằm được cuộn lại thành những nén tơ hoặc ống tơ. Tùy theo chất lượng tơ, cách giải quyết sợi tơ và bí quyết xoắn sợi tơ, người ta sẽ có được những loại tơ với tên gọi và chất lượng khác nhau.
Cách gọi dân gian:
Sợi mốt: là sợi tơ to, dùng để dệt dọc để dệt không bị đứt.
Sợi mành: là sợi dây mảnh, dùng để dệt ngang, lụa đều, không bị chỗ dày chỗ mỏng mảnh.
Sợi đũi: là sợi của kén cắn tổ, không ươm tơ được, xù xì, thô hơn.
Phương pháp gọi theo phương thức se sợi:
Sợi đơn: là kết quả của giai đoạn xoắn 1 sợi tơ thô. Sợi được xoắn dạng này gọi là sợi nhiễu, mousseliness , hay là sợi the xoắn.
Sợi khổ: là sợi nhận được trong khoảng thời kỳ xoắn nhị hay rộng rãi sợi tơ thô. Những sợi tơ này được sử dụng để dệt ngang.
Sợi xoắn: là sợi khổ được xoắn chặt
Sợi se 2 lần: 2 hay rộng rãi sợi đơn được se thành một sợi sau đó chúng được chập đôi bằng thời kỳ xoắn ngược, phần nhiều dùng để dệt dọc.
Các loại tơ lụa
Trong khoảng các sợi tơ ở trên, tùy theo bí quyết dệt người ta có được những loại tơ lụa khác biệt.
Kiểu dệt cổ điển của vietnam là phối thích hợp, pha trộn các loại sợi dọc và ngang để phát hành những mặt hàng không giống nhau. Người thợ khi dệt phải sử dụng tay đưa, chân dận song song.
Suốt là ống cuốn chỉ, nằm trong ruột con thoi để nhả sợi. Khí cụ đóng hộp căn bản là khung cửi gỗ “ con cò “, dệt ra loại hàng vuông, thô, mỏng manh, mức độ 40 hay 60 cm ( Con cò đặt ở trên và chính giữa khung dệt để thẳng sợi, làm cho chuẩn cho cái go khỏi lệch ) Những vuông lụa mới dệt ngừng gọi là lụa mộc, chỉ có màu trắng ngà hay tiến thưởng mỡ gà của tơ, được đem nhuộm sau.
Theo cách thức thủ công, lụa mộc sẽ được ngâm trong nước trà, nước trầu không, nhựa cây … rồi xả, nhuộm màu, phơi khô, nhuộm lại lần thứ hai để ra đúng màu sắc như ý muốn. Màu nhuộm được pha nhạo báng với chất liệu hoàn toàn thiên nhiên như: hột ràng ràng ( Gardenia augusta, tiếng Hán là Chi tử ), lá bàng ( Terminalia catappa, tiếng Hán là Lãm nhân thụ ) than, gạch
Màu thông dụng là màu đen ( thâm ) và màu nâu. Người ta nhuộm nâu bằng củ nâu. Củ nâu ( Dioscorea cirrhosa – Evergreen yam) đem về, gọt vỏ xắt mỏng tanh, giã cho chảy nhựa, đổ thêm nước mà nhuộm. Nhuộm vài nước thì được màu nâu non, đa dạng nước thì có màu nâu già ( nâu đậm ). Các loại lụa nhuộm cho màu gụ nâu. Nhuộm bằng củ nâu vừa bền màu lại vừa chắc sợi. Ngâm nước bùn để có màu thâm. Màu tam giang là màu nâu tím. Người ta còn sử dụng cánh kiến ( một loại sâu ở mạn Sơn La, Lai Châu ) để nhuộm màu nâu đỏ. Có khi chuội ( trụng nước sôi ) lụa mộc để lấy màu trắng. Trong miền Nam sử dụng trái mặc nưa để nhuộm lụa đen Tân Châu ( lãnh Mỹ A).
( Mặc nưa được trồng phổ biến ở Campuchia. Cây cao vài ba thước. Lá nhỏ tuổi, hình thuẫn, xanh láng. Trái giống như trái olive, khi còn sống màu xanh, khi chín chuyển màu đen )
Hiện nay, công nghệ nhuộm tiến bộ mang đến cho lụa tơ tằm những màu sắc đa dạng và rực rỡ hơn nhưng dù sao trong sâu thẳm tâm hồn người địa phương Việt, những màu sắc mộc mạc tự nhiên vẫn được ưu ái trở lại kiếm tìm.
Với bàn tay tinh tế và sự sáng tạo không xong xuôi của cư dân vietnam, các item dệt ra từ tơ tằm rất phú quý, đa dạng như: lụa, là, gấm, vóc, vân, the, lĩnh, băng, sa, xuyến, đoạn, nhiễu, đũi, cấp, kỳ cầu …
Làm ra đủ các thứ hàng
Hàng đơn, hàng kép ngang dọc tinh tường
Lượt, là, lĩnh, lụa, xuyến, lương
Đoạn, vân, gấm, vóc, sa, băng, kỳ cầu .
Những mặt hàng có nền dày gồm:
– Gấm:
Nền dày, bóng như xa tanh. Nền gấm thường có những hoa văn, chữ triện hay chữ thọ với sắc màu tươi, sặc sỡ bằng kim tuyến, ngân tuyến được dệt như thêu. Một tấm gấm thường có phổ thông màu, phổ biến là năm màu: xanh, đỏ, tím, quà,trắng hay bảy màu, gọi là gấm ngũ thể hay thất thể. Do sợi ngang ( tạo hoa nổi lên trên ) và sợi dọc ( tạo nền chìm ở dưới ) đều được nhuộm màu nên khi có ánh sáng, đứng ở mỗi góc cạnh khác biệt, ta sẽ thấy bản thân gấm có các màu sắc khác biệt.
Gấm có vẻ đẹp lộng lẫy, đặc sắc nên ngày xưa dân thường không được sử dụng, chỉ có vua, quan mặc được mà thôi.Vua mặc gấm quà có nhị rồng chầu mặt nguyệt hay hổ phù. Còn gấm may lễ phục cho các quan thường là gấm hoa tròn hay gấm hoa bạc. Có câu:” Dệt gấm, thêu hoa “
– Vân:
Là mặt hàng xếp thứ nhị sau gấm. Hàng vân có nền lụa, mỏng mảnh hơn xa tanh, bao giờ cũng có hai kiểu hoa dệt trên một tấm vân: hoa nổi và hoa chìm; Hoa nổi bóng mịn, còn hoa chìm phải đưa lên ánh sáng mới thấy được. ngừng thi côngĐây là nét rất dị store vân, nhờ có hoa thủng tương tự, nên các áo lót bên trong sẽ nổi màu lên rất đẹp khi mặc áo ngoài may bằng vân.Vân được dùng dễ may áo dài mặc vào thời điểm hội hè, đình đám.
Những mặt hàng dày có số lượng sợi dọc phổ biến là:
– Lĩnh ( lãnh):
Sợi mịn, một mặt bóng, một mặt mờ do khi dệt đưa sợi dọc lên đa dạng tạo nên sự bóng lộn cho mặt hàng. Lĩnh thâm (đen ) trót lọt rất thông dụng, dùng may váy, quần cho thanh nữ, ngoài lĩnh trơn tuột còn có lĩnh hoa dầy dặn, có điểm lấm tấm hoa mịn màng, kín đáo, có tên riêng là lĩnh hoa chanh, nổi tiếng nhất là lĩnh Bưởi đen nhánh, óng mượt.
– Đoạn:
Đoạn cũng được dệt theo cơ chế của lĩnh, nhưng dày hơn, sợi dọc phổ thông hơn cả gấm. Khác biệt sợi dọc, sợi ngang nổi đều nhau, mịn màng, óng ả. Đoạn sử dụng để may áo dài cho nam giới mặc tham gia những thời điểm trang trọng .Do hàng đoạn dày nên người ta thường may áo đoạn bọc lụa bên trong mặc tham gia mùa lạnh.
– Vóc:
Là một thứ đoạn mỏng dính, có hoa, dệt bằng sợi đồng màu, dùng khiến cho tán thờ thần hay may bộ cánh cho vua chúa, quan lại. Vóc thường đi bình thường với gấm: gấm vóc.
Những mặt hàng dệt thủng ( thưa ):
– The:
Sợi dệt bóng và mảnh, sợi dọc rất ít nên the thưa. Dệt the là sắp xếp các sợi dọc và ngang không khít nhau, tạo nên hình thủng theo hàng ngang. The có phổ quát loại: the đơn ( mỏng mảnh ), the kép ( dầy ), và the hoa. The được nhuộm thâm để may áo mặc bên ngoài, hay chuội cho trắng để mặc mùa hot, nhiều người biết đến nhất là the La Cả.
Đối với dân thường, áo the được coi là sang nhất và rất thông thường. Những hàng the dùng may y phục tế lễ gọi là hàng địa, thường có hoa văn khác lạ như: song hạc, hổ phù, thủy ba gợn sóng
Sa, xuyến, băng cũng tựa như the, là các loại hàng mỏng manh, bóng và bền: vì khi giặt không bị xô dạt sợi, dù mỗi mặt hàng mỗi vẻ không giống nhau
– Sa:
Sa được dệt rất mỏng mảnh nên trong suốt, tạo nên những con đường vân óng ánh rất đẹp ví như mặc áo trong màu trắng. Sa mỏng manh và mát nên thường được mặc vào mùa hè.
Có sa đơn và xa hoa. Xa hoa có nhiều loại: khác lạ là sa thất thể và sa cung đình( dùng may áo long bào cho vua mặc vào mùa nóng ).
– Xuyến ( quyến ):
Xuyến như sa, có cát nổi ngang, mỏng dính hơn the trót lọt và thoáng trông tựa mành mành do sợi dầy xen lẫn sợi thưa. Xuyến bận bịu hơn the.
– Băng:
Cũng là mặt hàng thủng, trong suốt, có hoa thưa thớt, nhẹ hơn the.
– Cấp:
Mỏng gần giống như the, lượt và thường có hoa.
– Lượt:
Mặt hàng dệt thưa, mỏng, mịn, rất mềm, sử dụng may khăn, áo.
– Lương:
Có lương đơn và kép, sử dụng để may áo dài, làm khăn.
Các sản phẩm dệt khác:
– Lụa:
Có nhì loại: lụa trơn tru và lụa hoa , dệt bằng tơ nõn sao cho sợi dọc và sợi ngang khít với nhau, tạo nên vẻ mịn màng, óng ả và độ dày vừa phải.
– Là:
Cùng họ với lụa, dệt bằng tơ nõn, có những con đường dọc nhỏ dại đều, thường được dùng làm cho khăn màu hay nhuộm màu để khiến các phần đổi màu trong bộ cánh.
– Nhiễu:
Là thứ lụa dệt bằng sợi đã se nên mặt nổi cát như hàng crêpe bây giờ, dùng khiến cho khăn.
– Kỳ cầu:
Là thứ lụa bóng có hoa bé dại, nền mịn và đều.
– Đũi:
Được dệt trong khoảng tơ trong cùng của kén tằm, hơi thô, cũng dày và bền như nái, nhưng mềm và mịn hơn. Đũi nguyên thủy óng màu tiến thưởng chín của kén tằm. Đũi thì có loại trơn, loại hoa và đũi thọ hỉ. Đũi mộc mạc, thoáng, mát mùa hè, rét mướt mùa đông, sử dụng may quần, áo và thắt lưng.
– Sồi ( chồi ):
Dệt bằng tơ gốc, thường sử dụng may yếm, khố, bao …
– Nái:
Được dệt bằng sợi kéo trong khoảng vỏ kén bên ngoài nên thớ to, có phổ biến lông và cục sần, thường có màu quà đậm, cứng nhưng rất bền. Nái dùng khiến cho khăn, may thắt lưng …
Ngày nay với khoa học dệt hiện đại và các kỹ thuật mới giúp giải quyết được khuyết điểm dễ nhăn, dễ hỏng của tơ tằm, người ta đóng hộp rộng rãi loại vải lụa tơ tằm không giống nhau, dịch vụ cho đủ mọi đòi hỏi bộ cánh:
Chiffon: lụa chiffon tơ tằm mỏng tanh tang, trong mờ, mượt mà, có sự mềm mại, dịu dàng, ấm áp, tao nhã của tơ sợi tự nhiên. Ngoài vật phẩm thông dụng là hàng màu trơn tuột , bây giờ có đông đảo mặt hàng lụa chiffon in hoa văn mới lạ và thích mắt với phổ quát kích thước, phù hợp với phổ quát loại trang phục.
Habotai: đục nhẹ, mỏng mảnh, nhẹ tơn, rất mượt mà và mát dịu. Rất nhẹ nhàng và tạo sự thoải mái thoải mái cho khách khi dùng nên lụa Habotai cũng được sử dụng để may áo kiểu dùng cho mùa hè hoặc áo dây, áo ngủ .
Satin: óng ả và mềm mại , bóng đẹp. Lụa satin tơ tằm rất dịu dàng, mềm mại, rút mồ hôi, lanh tanh vào mùa hè, lại không tích điện dính sát vào người vào mùa đông.. Hình như các màu trơn tru, lụa satin còn được in nhiều hoa văn phú quý mang lại sự chọn lựa thuận lợi cho khách hàng để may áo cưới, trang phục hàng ngày, phong cách và trang hoàng phía bên trong.
Twill: có độ bóng vừa phải, dày dặn và độ rũ cao hơn lụa habotai mà vẫn mềm mại, lạnh lẽo, phù hợp với mọi lứa tuổi. Tạo cảm giác nữ tính dễ chịu khi mặc , không gây khó chịu, kích thích da nên thích hợp mọi bộ cánh thời trang.
Organza: hơi cứng hơn Taffeta nhưng thưa và mỏng hơn và có thể nhìn xuyên suốt. Sử dụng phù hợp nhất là các item may mặc hoặc trang trí cho áo cưới hoặc đầm dạ hội sang trọng.
Taffeta: có độ bóng, độ cứng, “ đứng mình”, lại không bám da tham gia mùa đông nên thích hợp để may áo cưới, áo vest, áo khoác, váy ngắn, quần tây hay câu kết với các loại chất liệu khác để may item thời tr,ang công sở, dạo phường.
Tussah: còn gọi là “Đũi thô” là item được dệt trong khoảng những sợi tơ thô của con tằm. Đũi có bề mặt hơi khô nhưng có độ bóng nhẹ nên thích hợp cho item áo sơ mi nam , áo vest hoặc quần tây.
Jacquard: mềm mại, nõn nường nà, óng ả. Ngoài ra màu sắc tươi trẻ, đa dạng, lóng lánh đặc thù của tơ tằm, các hoa văn giàu có trong khoa học dệt hoa văn chìm đem lại sự chọn nhiều chủng loại cho khách hàng để may áo dài, trang phục thời trang, trang hoàng nội thất.
Damash: là loại vải dày dặn, có độ mềm vừa phải, mềm mại hơn Taffeta, nhưng có độ bóng và ánh màu như satin, có đa dạng kiểu hoa văn lạ phù hợp may áo vest, quần tây, áo dài, cravat…
Để có được vải tấm lụa sang trọng, mượt mà, cần đầu tư biết bao nhiêu công trạng và thời điểm. Chất liệu tự nhiên hoàn hảo này mang lại cho chúng ta sự dễ chịu, bình yên, dễ chịu khi dùng và xứng đáng để chúng ta trả giá cao để dùng chúng.
Nguồn: http://baminh.com/tin-tuc/tong-quan-...at-lua-to-tam/
Tham khảo thêm: cách cọ nhọ nồi
0 nhận xét:
Đăng nhận xét